BAN CHẤP HÀNH
Tin kinh tếThứ ba, 03/01/2017 15:01
Tư duy chính xác về “chuỗi cung ứng bền bỉ”
“Supply chain resilience” – chuỗi cung ứng bền bỉ có thể được coi trọng tâm của tư duy về chuỗi cung ứng.
Trong bối cảnh kinh tế ngày càng trở nên năng động, có nhiều những sự cố có khả năng làm cho chuỗi cung ứng hoạt động sai nhịp, gián đoạn, hoặc tê liệt hoàn toàn. Sức mạnh của chuỗi cung ứng bền bỉ sẽ giúp DN vượt qua các thử thách này.
“Voi, hamster, cáo và sư tử…”
Hầu như tất cả những ai làm việc trong ngành chuỗi cung ứng đều biết về trận lụt lịch sử của Thái Lan vào năm 2011 gây gián đoạn chuỗi cung ứng của rất nhiều ngành chế tạo.
Trong rất nhiều những DN bị ảnh hưởng có cả những tên tuổi lớn như Nissan và Toyota. Hai DN này đều bị ảnh hưởng nặng nề bởi cơn lũ nhưng Nissan đã hồi phục nhanh hơn nhiều so với Toyota vì họ đã sử dụng những nhà cung ứng dự phòng nằm ngoài khu vực ảnh hưởng trong khi Toyota không làm được điều đó.
Dựa vào 2 tiêu chí trên, ta có thể đánh giá sự bền bỉ của một chuỗi cung ứng và phân thành bốn nhóm: Nhóm “voi” với khả năng chống chọi cao nhưng hồi phục chậm; nhóm “hamster” với khả năng chống chọi thấp, hồi phục chậm, khả năng tê liệt hoàn toàn cao; nhóm “sư tử” với khả năng chống chọi cao, hồi phục nhanh; nhóm “cáo” với khả năng chống chọi thấp nhưng hồi phục nhanh.
Chuỗi cung ứng tại Việt Nam có bền bỉ không?
Hiện chưa có một nghiên cứu đi sâu vào sự bền bỉ của chuỗi cung ứng tại Việt Nam. Tuy nhiên, một chuỗi cung ứng bền bỉ không thể nào tự nhiên mà có được, vì vậy chỉ việc đánh giá mức độ đầu tư vào 8 tiêu chí dưới đây thì sẽ có thước đo sự bền bỉ của chuỗi cung ứng Việt Nam.
Thứ nhất, khám phá: theo nghiên cứu gần đây của CEL Consulting, khoảng 64% DN tại Việt Nam chưa đạt được kỳ vọng của họ về năng lực dự báo.
Thứ hai, thông tin: Theo nghiên cứu của CEL Consulting, hiện chỉ có khoảng 15% DN tại Việt Nam đầu tư vào hệ thống quản lý kinh doanh theo gần với thời gian thực.
Thứ ba, thiết kế mạng lưới cung ứng: nhiều DN còn gặp khó khăn khi đưa ra những quyết định liên quan đến tối ưu hóa mạng lưới vì tính phức tạp của vấn đề.
Thứ tư, dự phòng: đầu tư vào những phương pháp dự phòng tồn kho, công suất và lead-time phù hợp. Những khoản đầu tư ở đây tập trung vào nâng cao năng lực quản lý của đội ngũ nhân sự.
Thứ năm, tính linh hoạt trong vận hành: đầu tư vào những phương án thay thế như phương tiện vận tải, cung đường, định mức nguyên liệu linh hoạt.
Thứ sáu, an ninh
Thứ bảy, sẵn sàng phản ứng.
Thứ tám, sự cảm thông: khi khách hàng trung thành với thương hiệu thì rủi ro mất thị phần do chuỗi cung ứng bị gián đoạn sẽ giảm.
Julien Brun – Tổng Giám Đốc, CEL Consulting
Nguồn: http://enternews.vn